ISO 22000 Ngọc Hùng Một phụ nữ đang phun thuốc bảo vệ thực vật cho lúa
I. ,CHỨNG NHẬN HỢP QUY – 0903 587 699 Bị cáo thu mua một số thuốc bảo vệ thực vật giá rẻ bán trôi nổi trên thị trường về pha trộn đóng hộp thành thuốc chính hãng của một số công ty độc quyền lừa bán cho nông dân để ăn tiền lời chênh lệch
Sơ chế rau an toàn trước khi bán ra thị trường tại xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Vỏ bao đựng thuốc bảo vệ sau khi sử dụng tràn lan thuốc bảo vệ thực vật trên đồng ruộng..
Đây là lần thứ hai CropLife tổ chức sự kiện này với mục tiêu nâng cao nhận thức cho bà con nông dân về sử dụng đúng và hiệu quả các chất bảo vệ thực vật, đảm bảo an toàn cho người sử dụng, nông sản và môi trường. TRẦN MẠNH. Các doanh nghiệp trong diện thanh tra đại diện cho các loại hình doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, công ty cổ phần, công ty TNHH nằm trong nhóm 15 doanh nghiệp dẫn đầu về sản lượng. Hoạt động sản xuất kinh doanh của 11 công ty đều là nhập khẩu hoạt chất kỹ thuật về pha chế hoặc nhập khẩu thành phẩm TBVTV cả thùng phuy, bao lớn, sau đó sang chai hoặc đóng gói nhỏ; quy trình pha chế đóng gói đơn giản, máy móc thô sơ, chủ yếu là lao động thủ công.Tại 7 tỉnh, thành phố có doanh nghiệp kinh doanh TBVTV trong diện thanh tra, 6 địa phương gồm Hà Nội, Hồ Chí Minh, An Giang, Đồng Nai, Bình Dương, Bắc Giang chính quyền đã công bố danh mục các tổ chức kinh doanh phải đăng ký giá, tuy nhiên lại không quy định loại, tên TBVTV cụ thể các doanh nghiệp phải đăng ký; riêng Cần Thơ chưa công bố danh mục các tổ chức kinh doanh TBVTV trên địa bàn phải đăng ký giá.Nhìn nhận diễn biến thị trường TBVTV trong năm 2010 và đầu năm 2011, Bộ Tài chính cho rằng, không có tăng giá đột biến, song tăng giá là chủ yếu, mức tăng lớn hơn mức giảm giá. Trong số hơn 60 loại TBVTV có doanh số bán lớn của 11 công ty trên, giá bán trong năm 2010 đa số tăng từ 10% - 25%, trong đó có 10 sản phẩm tăng từ 28,3% - 51,9%, tăng cao nhất là loại Ridweed RP 480SL vàng của Công ty cổ phần Hóa nông lúa vàng.Trong khoảng thời gian từ tháng 2 đến tháng 5/2011, các công ty trên tiếp tục điều chỉnh giá bán tăng mạnh. Tính đến tháng 6/2011, hầu hết các loại thuốc BVTV đều tăng giá so với đầu năm, trong đó có 10 sản phẩm tăng từ 18,9% - 28,1%, tăng cao nhất là thuốc trừ sâu Sutin 5EC của Công ty cổ phần Bảo vệ thực vật I Trung ương. Nếu tính mức giá của quý II/2011 so với tháng 1/2010 thì giá các loại TBVTV đã tăng từ 47% - 55%, so với cùng kỳ 2010 tăng từ 3% - 37%. Thời gian gần đây, kinh doanh các loại TBVTV có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến giá bán bởi giá nguyên liệu, phụ liệu để pha chế, thành phẩm TBVTV nhập khẩu tăng, tỷ giá ngoại tệ liên tục tăng khiến chi phí đầu vào tăng khoảng 12% - 13%; bên cạnh đó còn có tác động từ giá xăng dầu, chi phí vận chuyển, tiền lương tăng, đặc biệt là tác động của lãi suất ngân hàng tăng cao trong năm 2011. Tuy nhiên, Bộ Tài chính khẳng định, các công ty định giá bán TBVTV tăng không hoàn toàn phụ thuộc vào chi phí đầu vào sản xuất, thậm chí giá bán thoát ly cách biệt hẳn so với giá thành sản phẩm, nhiều loại tăng giá cao hơn mức tăng chi phí sản xuất.Qua công tác thanh tra, Thanh tra Bộ Tài chính đã kiến nghị chấn chỉnh việc chấp hành pháp luật về giá trong kinh doanh TBVTV, quyết định xử phạt vi phạm hành chính về giá đối với các công ty vi phạm trong diện thanh tra nêu trên với số tiền 27.500.000 đồng.11 công ty TBVTV trong diện thanh tra đều kinh doanh có lãi; Năm 2010, lợi nhuận trước thuế công ty đạt được thấp nhất là 1,1 tỷ đồng, công ty đạt cao nhất là 494,8 tỷ đồng; tỷ suất lợi nhuận trên vốn điều lệ khá cao từ 9,4% - 143,1% trong đó có 7 công ty đạt 23,6% - 78,9%; 2 công ty đạt 130 - 143,1%. Thế nhưng, khi thanh tra đã phát hiện cả 11 doanh nghiệp đều có nhiều sai phạm về kê khai thuế, Thanh tra Bộ Tài chính đã kiến nghị truy thu nộp ngân sách Nhà nước khoảng 7,167 tỷ đồng trong đó thu thuế giá trị gia tăng 113.848.767 đồng, thuế thu nhập doanh nghiệp 7,053 tỷ đồng, thuế thu nhập cá nhân 121.425.009 đồng.Bộ Tài chính cũng khuyến cáo trên thị trường TBVTV hiện có quá nhiều loại tên thương phẩm được lưu hành, trong đó nhiều loại có tên thương mại khác nhau nhưng lại có cùng thành phần, hàm lượng và cùng công dụng… được các công ty kinh doanh TBVTV tung ra thị trường, điều này khiến cho người sử dụng rất dễ lệ thuộc vào quảng cáo mà không thể tự đánh giá được tính hợp lý về giá của sản phẩm./.Lan Ngọc. VEC: Cao tốc Nội Bài - Lào Cai nứt do ... Ảnh minh họa. Nguồn: Internet Thông tư hướng dẫn cụ thể về mức thu và tổ chức thu, nộp và quản lý sử dụng. Theo đó, mức thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật được quy định cụ thể tại Biểu mức thu ban hành kèm theo Thông tư này. Phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật là khoản thu thuộc ngân sách nhà nước. Cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật có trách nhiệm đăng ký, kê khai nộp phí, lệ phí vào ngân sách nhà nước theo quy định tại Thông tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/7/2002 và Thông tư số 45/2006/TT-BTC ngày 25/5/2006 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/7/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật về phí và lệ phí. Cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật được quản lý sử dụng như sau: Đối với cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật được trích để lại tiền thu phí, lệ phí trước khi nộp vào ngân sách nhà nước theo tỷ lệ % trên tổng số tiền phí, lệ phí thực thu để lại: 20% lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật; được để lại: 80% phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật. Đối với Thuốc bảo vệ thực vật nộp ngân sách nhà nước phần tiền phí, lệ phí còn lại tổng số tiền phí, lệ phí thực thu được, trừ số đã để lại theo tỷ lệ quy định tại điểm a khoản này gồm: Lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật phải nộp vào ngân sách nhà nước: 80%; Phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật phải nộp vào ngân sách nhà nước: 20%. Cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật được sử dụng số tiền để lại theo tỷ lệ % quy định tại điểm a khoản 3 Điều này để chi phí cho việc thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật với nội dung chi cụ thể như: Chi trả các khoản tiền lương hoặc tiền công, các khoản phụ cấp, các khoản chi bồi dưỡng độc hại, làm việc thêm giờ, ngoài giờ, các khoản đóng góp theo tiền lương, tiền công cho lao động kể cả lao động thuê ngoài phục vụ việc thu phí, lệ phí theo chế độ hiện hành; Chi trang bị đồng phục hoặc bảo hộ lao động cho lao động thực hiện việc thu phí, lệ phí theo chế độ quy định nếu có; Chi phí phục vụ cho việc thu phí, lệ phí như: vật tư văn phòng, điện thoại, điện, nước, công tác phí, công vụ phí; In mua tờ khai, giấy phép, các loại ấn chỉ khác theo tiêu chuẩn, định mức hiện hành; Chi sửa chữa thường xuyên, sửa chữa lớn tài sản, máy móc, thiết bị phục vụ cho việc thu phí, lệ phí; Chi hội nghị, hội thảo, tập huấn nghiệp vụ, tuyên truyền quảng cáo phục vụ việc thu phí, lệ phí; Chi mua sắm vật tư, nguyên liệu, thiết bị, công cụ làm việc và các khoản chi khác theo dự toán được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; Chi khen thưởng, phúc lợi cho cán bộ, nhân viên trực tiếp thực hiện công việc, dịch vụ và thu phí, lệ phí trong đơn vị theo nguyên tắc bình quân một năm, một người tối đa không quá 3 tháng lương thực hiện nếu số thu năm nay cao hơn năm trước và tối đa bằng 2 tháng lương thực hiện nếu số thu năm nay thấp hơn hoặc bằng năm trước. Cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật phải quản lý, sử dụng số tiền phí, lệ phí được để lại nêu trên đúng mục đích, có chứng từ hợp pháp theo quy định. Định kỳ theo quy định của Cục Bảo vệ thực vật, các cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật trực thuộc căn cứ vào dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt hàng năm chia theo từng tháng, quý, nếu số tiền được trích để lại theo tỷ lệ quy định trên đây lớn hơn số được chi theo dự toán được duyệt thì phải nộp số chênh lệch vào tài khoản của Cục Bảo vệ thực vật để Cục thực hiện điều hòa cho các đơn vị trực thuộc không đủ nguồn chi bảo đảm hoạt động.Cục Bảo vệ thực vật được mở thêm tài khoản tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước nơi đóng trụ sở để điều hòa tiền phí, lệ phí giữa các đơn vị trong nội bộ. Số dư tài khoản cuối năm được chuyển sang năm sau. Tổng số tiền phí, lệ phí thực thu được, sau khi trừ số được trích để lại trang trải cho việc thu phí, lệ phí theo tỷ lệ % quy định, số tiền còn lại cơ quan thu phí, lệ phí phải nộp vào ngân sách nhà nước theo Mục lục Ngân sách nhà nước hiện hành. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 07/02/2013, đồng thời thay thế Thông tư số 110/2003/TT-BTC ngày 17/11/2003 của Bộ Tài chính. Biểu mức thu ban hành kèm theo Thông tư này: Bieu muc thu phi kem theo.DOC .. ,Hợp chuẩn sản phẩm bê tông ứng lực trước 0903 587 699
Không những giảm chi phí sản xuất, sử dụng đúng thuốc BVTV còn giảm được ảnh hưởng của thuốc tới sức khỏe người dân và tác động xấu tới môi trường. Ngày hội sử dụng thuốc BVTV an toàn và hiệu quả 2012” do CropLife VN phối hợp với chi cục BVTV của chín tỉnh thành gồm An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, Long An, Kiên Giang, Tiền Giang, Hà Nội, Bắc Ninh và Hưng Yên tổ chức nhằm khuyến khích nông dân sử dụng an toàn và hiệu quả các sản phẩm thuốc BVTV. TRẦN MẠNH. Kho chứa hóa chất BVTV của Chi cục BVTV tỉnh Lạng Sơn. Ảnh: Song Toàn. Ảnh minh họa. Nguồn: Internet Thông tư hướng dẫn cụ thể về mức thu và tổ chức thu, nộp và quản lý sử dụng. Theo đó, mức thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật được quy định cụ thể tại Biểu mức thu ban hành kèm theo Thông tư này. Phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật là khoản thu thuộc ngân sách nhà nước. Cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật có trách nhiệm đăng ký, kê khai nộp phí, lệ phí vào ngân sách nhà nước theo quy định tại Thông tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/7/2002 và Thông tư số 45/2006/TT-BTC ngày 25/5/2006 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/7/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật về phí và lệ phí. Cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật được quản lý sử dụng như sau: Đối với cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật được trích để lại tiền thu phí, lệ phí trước khi nộp vào ngân sách nhà nước theo tỷ lệ % trên tổng số tiền phí, lệ phí thực thu để lại: 20% lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật; được để lại: 80% phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật. Đối với nộp ngân sách nhà nước phần tiền phí, lệ phí còn lại tổng số tiền phí, lệ phí thực thu được, trừ số đã để lại theo tỷ lệ quy định tại điểm a khoản này gồm: Lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật phải nộp vào ngân sách nhà nước: 80%; Phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật phải nộp vào ngân sách nhà nước: 20%. Cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật được sử dụng số tiền để lại theo tỷ lệ % quy định tại điểm a khoản 3 Điều này để chi phí cho việc thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật với nội dung chi cụ thể như: Chi trả các khoản tiền lương hoặc tiền công, các khoản phụ cấp, các khoản chi bồi dưỡng độc hại, làm việc thêm giờ, ngoài giờ, các khoản đóng góp theo tiền lương, tiền công cho lao động kể cả lao động thuê ngoài phục vụ việc thu phí, lệ phí theo chế độ hiện hành; Chi trang bị đồng phục hoặc bảo hộ lao động cho lao động thực hiện việc thu phí, lệ phí theo chế độ quy định nếu có; Chi phí phục vụ cho việc thu phí, lệ phí như: vật tư văn phòng, điện thoại, điện, nước, công tác phí, công vụ phí; In mua tờ khai, giấy phép, các loại ấn chỉ khác theo tiêu chuẩn, định mức hiện hành; Chi sửa chữa thường xuyên, sửa chữa lớn tài sản, máy móc, thiết bị phục vụ cho việc thu phí, lệ phí; Chi hội nghị, hội thảo, tập huấn nghiệp vụ, tuyên truyền quảng cáo phục vụ việc thu phí, lệ phí; Chi mua sắm vật tư, nguyên liệu, thiết bị, công cụ làm việc và các khoản chi khác theo dự toán được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; Chi khen thưởng, phúc lợi cho cán bộ, nhân viên trực tiếp thực hiện công việc, dịch vụ và thu phí, lệ phí trong đơn vị theo nguyên tắc bình quân một năm, một người tối đa không quá 3 tháng lương thực hiện nếu số thu năm nay cao hơn thuoc bao ve thuc vat năm trước và tối đa bằng 2 tháng lương thực hiện nếu số thu năm nay thấp hơn hoặc bằng năm trước. Cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật phải quản lý, sử dụng số tiền phí, lệ phí được để lại nêu trên đúng mục đích, có chứng từ hợp pháp theo quy định. Định kỳ theo quy định của Cục Bảo vệ thực vật, các cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật trực thuộc căn cứ vào dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt hàng năm chia theo từng tháng, quý, nếu số tiền được trích để lại theo tỷ lệ quy định trên đây lớn hơn số được chi theo dự toán được duyệt thì phải nộp số chênh lệch vào tài khoản của Cục Bảo vệ thực vật để Cục thực hiện điều hòa cho các đơn vị trực thuộc không đủ nguồn chi bảo đảm hoạt động.Cục Bảo vệ thực vật được mở thêm tài khoản tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước nơi đóng trụ sở để điều hòa tiền phí, lệ phí giữa các đơn vị trong nội bộ. Số dư tài khoản cuối năm được chuyển sang năm sau. Tổng số tiền phí, lệ phí thực thu được, sau khi trừ số được trích để lại trang trải cho việc thu phí, lệ phí theo tỷ lệ % quy định, số tiền còn lại cơ quan thu phí, lệ phí phải nộp vào ngân sách nhà nước theo Mục lục Ngân sách nhà nước hiện hành. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 07/02/2013, đồng thời thay thế Thông tư số 110/2003/TT-BTC ngày 17/11/2003 của Bộ Tài chính. Biểu mức thu ban hành kèm theo Thông tư này: Bieu muc thu phi kem theo.DOC. Chỉ cho thành lập mới văn phòng công chứng ở những nơi chưa có Sáng 29.10, QH đã nghe Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình bày dự luật công chứng, nghe Chủ nhiệm UBPL của QH báo cáo thẩm tra về dự luật này. Theo đó dự luật quy định theo hướng khuyến khích việc xã hội hóa hoạt động công chứng. Việc thành lập tổ chức hành nghề công chứng phải tuân theo quy định của luật này và phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên, khác với luật hiện hành cho phép phòng công chứng được thành lập ở bất cứ đâu, dự luật quy định phòng công chứng chỉ được thành lập tại những địa bàn chưa có điều kiện phát triển văn phòng công chứng; văn phòng công chứng thành lập ở những địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được hưởng chính sách ưu đãi. S.ĐÀ .
II. Tác hại của thuốc bảo vệ thực vật đến sức khỏeThuốc bảo vệ thực vật là các loại hóa chất do con người sản xuất ra để trừ sâu bệnh và cỏ dại có hại cho cây trồng
Chưa quy định nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan, rau màu bảo đảm ở đó không có người và gia súc. Trước khi chế biến nên rửa rau bằng nước sạch, đê điều; thuốc trừ chuột.Thông tư này có hiệu lực sau 45 ngày kể từ ngày ký. Theo số liệu điều tra khảo sát, hướng dẫn theo qui định của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Việc thành lập tổ chức hành nghề công chứng phải tuân theo quy định của luật này và phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong quá trình hạt nảy mầm trong thời gian ngắn nhiệt độ cao thì vi sinh vật phát triển nhanh..Sâu chết ngay mới sướng Ông Nguyễn Văn Sơn, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội sản xuất và kinh doanh thuốc BVTV Việt Nam VIPA khẳng định, trong khi việc tuyên truyền tới cộng đồng về lợi ích của thuốc BVTV hiện nay chưa thực sự hiệu quả thì những thông tin quá mức về việc sử dụng thuốc BVTV gây ảnh hưởng tới sức khỏe, hủy hoại môi trường lại khiến toàn xã hội lo ngại và tránh xa các sản phẩm nông nghiệp có sử dụng thuốc BVTV. Theo ông Sơn, những ảnh hưởng tiêu cực trong việc sử dụng thuốc BVTV phần lớn xuất phát từ chính người sử dụng thuốc BVTV. Chỉ cần đi thăm đồng là có thể thấy rất rõ việc người dân lạm dụng thuốc, thậm chí là dùng sai, dùng cả thuốc độc, thuốc cấm, thuốc không có trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở Việt Nam. Rồi thì chưa dịch hại cũng phun thuốc, phun xịt với với liều lượng cao hơn khuyến cáo, phối trộn nhiều loại thuốc với nhau, xử lý thuốc BVTV nhiều lần trong vụ. Thực tế, đối với người dân, tiêu chuẩn chọn thuốc là sâu chết ngay thì mới tin dùng chứ không quan tâm xem thuốc đó phun với liều lượng thế nào, có phải thuốc cấm không... Một nguyên nhân khác còn do một số nhà phân phối thuốc BVTV vì lợi nhuận mà bất chấp tất cả. Họ sẵn sàng bán những loại thuốc mà nông dân ưa chuộng và có lợi nhuận cao, số lượng lớn. Ông Trần Quang Hùng, Chủ tịch của VIPA cho biết thêm, mỗi công ty, mỗi hãng sản xuất thuốc BVTV đều có hệ thống đại lý cấp dưới, hàng chục nghìn đại lý bán lẻ này nếu được tuyên truyền, phổ biến để hiểu rõ tác hại của việc sử dụng thuốc BVTV ngoài danh mục, thực hiện không đúng các quy định về sử dụng thuốc BVTV thì họ sẽ chính là kênh thông tin hữu hiệu đối với người sử dụng. Tuy nhiên, ông Hùng cũng cho rằng, không thể hoàn toàn đặt niềm tin vào ý thức của các đại lý, bởi nếu có lợi họ sẽ bất chấp mà làm. Đặc biệt, trên thị trường thuốc BVTV ở Việt Nam hiện nay có đến 20% thị phần là các doanh nghiệp kinh doanh thuốc BVTV trôi nổi, nhập lậu. Đây chính là trung tâm rắc rối với các loại thuốc kém chất lượng, thuốc giả, thuốc ngoài danh mục... Cần phải có sự kết hợp sử dụng một cách hài hòa giữa thuốc BVTV nguồn gốc sinh học và nguồn gốc hóa học. Loại bỏ tư tưởng làm quá sử dụng thuốc BVTV Ông Nguyễn Văn Sơn cho biết, đã đến lúc cần bỏ ngay tư tưởng làm quá trong việc sử dụng thuốc BVTV. Chúng ta không nên lạm dụng thuốc BVTV nhưng cũng không thể loại bỏ thuốc BVTV khỏi đồng ruộng. Cần phải có sự kết hợp sử dụng một cách hài hòa giữa thuốc BVTV nguồn gốc sinh học và nguồn gốc hóa học. Để đảm bảo an toàn, những loại thuốc được lựa chọn phải có các tiêu chuẩn như phải có trong danh mục được phép sử dụng ở Việt Nam, phải có hiệu lực phòng trừ dịch hại, ít độc với người và động vật có ích, không tồn dư lâu trong nông sản, đất, nước, không hoặc ít gây tính kháng ở dịch hại, giá cả hợp lý, an toàn, dễ sử dụng. Ngoài ra, cần sử dụng luân chuyển các thuốc BVTV có cơ chế tác động khác nhau để hạn chế tính kháng của dịch hại, sử dụng thuốc theo ngưỡng kinh tế. Cần phải nắm vững việc sử dụng thuốc phải tuân thủ theo nguyên tắc 4 đúng: đúng thuốc, đúng thời điểm, đúng cách, đúng liều lượng. Hơn thế cần xây dựng tổ chức các hoạt động huấn luyện đào tạo cho các cán bộ quản lý, sản xuất, cán bộ khuyến nông, nông dân theo hướng nông nghiệp hữu cơ. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần đầu tư và có các chương trình nâng cao nhận thức của cộng đồng sử dụng thuốc BVTV; cần có các chính sách hỗ trợ giá cho việc sản xuất nông sản an toàn cũng như sản xuất và sử dụng các thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học. Huy Khánh. Cần phải có sự kết hợp sử dụng một cách hài hòa giữa thuốc BVTV nguồn gốc sinh học và nguồn gốc hóa học. Nhiều loại rau trên thị trường nhiễm chất độc vượt mức cho phép. Để đạt được mục tiêu này, đòi hỏi phải tái cơ cấu tổng thể ngành trồng trọt. Tuy nhiên, khi triển khai xây dựng đề án các địa phương gặp nhiều vướng mắc như: Nhận thức của nông dân còn tư duy kiểu cũ, nguồn vốn đầu tư nhà nước có hạn, đầu ra sản phẩm bấp bênh… Đây là những nội dung được thảo luận kỹ tại hội nghị triển khai đề án tái cơ cấu ngành trồng trọt do Bộ NN&PTNT tổ chức ngày 23-9. Trồng su hào trái vụ tại xã Thanh Cao huyện Thanh Oai cho hiệu quả cao. Ảnh: Duy Kiên Khó nhân rộng mô hình sản xuất nông phẩm hàng hóa Ông Ngô Xuân Quảng, Cục trưởng Cục Trồng trọt Bộ NN&PTNT cho biết, trong trồng trọt có 9 lĩnh vực ưu tiên bao gồm: Chuyển đổi cơ cấu cây trồng; nghiên cứu giống; áp dụng rộng rãi công nghệ tưới tiên tiến; cơ giới hóa, giảm tổn thất sau thu hoạch; đẩy mạnh chế biến, bảo quản; xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn phù hợp với thị trường xuất khẩu; tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị; đổi mới thể chế chính sách; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về trồng trọt. Trong đó, tập trung vào tái cơ cấu một số sản phẩm chủ lực như lúa gạo thông qua việc liên kết xây dựng cánh đồng mẫu lớn. Hiện nay, 13 tỉnh Nam bộ đã xây dựng 369 mô hình cánh đồng mẫu lớn với diện tích 120.500ha, các tỉnh Đồng bằng sông Hồng đã xây dựng được 1.256 mô hình với diện tích 35.518ha. Năm 2014, cả nước tiếp tục mở rộng hàng trăm nghìn hécta. Về chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa, năm 2013, toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã chuyển đổi được 87.310ha gieo trồng, các tỉnh phía Bắc có hàng chục nghìn hécta đất lúa được chuyển đổi sang trồng màu, cây ăn quả mang lại hiệu quả kinh tế cao. Năm 2014, các địa phương tiếp tục thực hiện chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác hoặc chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Đối với cây cà phê đã phê duyệt được 13 nghìn hécta… Tuy nhiên, trong khi triển khai đề án tái cơ cấu, ngành trồng trọt còn nhiều khó khăn như: Nhiều địa phương, đơn vị, doanh nghiệp chưa xây dựng đề án, kế hoạch tái cơ cấu đối với từng sản phẩm chủ lực. Tổ chức triển khai trong thực tế còn chậm, chưa quyết liệt nên chưa có kết quả trong thực tiễn sản xuất. Nguyên nhân là do nhận thức về sự cần thiết phải tái cơ cấu nông nghiệp nói chung và lĩnh vực trồng trọt nói riêng chưa có sự thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Một số đơn vị chưa nắm vững mục đích, định hướng, nội dung, giải pháp của tái cơ cấu nên còn lúng túng trong việc xây dựng đề án, kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện. Tư duy sản xuất của người dân còn lạc hậu và thiên về số lượng, tài nguyên đất nước bị lãng phí, lạm dụng hóa chất. Việc sản xuất còn nhỏ le, thiếu liên kết, thiếu hội nhập quốc tế, ít quan tâm đến tính bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường. Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước có hạn, đầu tư của doanh nghiệp hạn chế không đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu, nhất là nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất như giao thông, thủy lợi nội đồng. Thực tế, thị trường tiêu thụ đang là trở ngại lớn nhất cho việc chuyển đổi, mở rộng quy mô sản xuất. Tuy đã xây dựng mô hình sản xuất thành công nhưng khó nhân rộng ra sản xuất lớn. Khoa học công nghệ chưa có nhiều đột phá, việc đưa giống mới, tiến bộ kỹ thuật mới chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản. Quản lý nhà nước về chất lượng giống, phân bón, thuốc BVTV còn hạn chế, yếu kém. Chính sách hỗ trợ tái cơ cấu chưa hoàn thiện, nhiều địa phương thiếu kinh phí thực hiện. Lựa chọn các sản phẩm có lợi thế Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Ngô Đại Ngọc cho rằng: Hiện nay, Hà Nội thuốc bảo vệ thực vật chú trọng vào một số cây trồng chủ lực như: Lúa, cây ăn quả, chè, rau… Khi triển khai đề án tái cơ cấu cần tập trung phối hợp giữa tất cả các khâu, từ giống, thủy lợi, phân bón, thuốc BVTV, quản lý dịch bệnh, đến khâu thu hoạch, bảo quản, đặc biệt là khoa học kỹ thuật. Để đạt được mục tiêu của đề án với giá trị đạt 120 triệu đồng/ha, diện tích liên kết, sản xuất, tiêu thụ, xây dựng cánh đồng lớn phải chiếm 50%; tỷ lệ giống xác nhận phải chiếm 75%. Sản xuất phải áp dụng quy trình VietGap, 3 giảm 3 tăng… nhằm đạt năng suất, chất lượng, an toàn thực phẩm, giảm chi phí, hạ giá thành, giảm phát thải khí nhà kính, giảm ô nhiễm môi trường; sử dụng giống kháng bệnh... Nhà nước cần có những chính sách về vốn để hỗ trợ cho các địa phương triển khai xây dựng các mô hình sản xuất hàng hóa chất lượng cao ở một vùng cụ thể sau đó nhân rộng. Ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ cao vào trồng trọt để mang lại giá trị kinh tế cao. Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát cho rằng: Cái đích cuối cùng của đề án tái cơ cấu ngành trồng trọt chính là nông dân phải được hưởng lợi. Việt Nam hiện vẫn là nước sử dụng nước, phân bón, thuốc BVTV lãng phí hàng đầu trên thế giới. Do đó, trong thời gian tới để việc tái cơ cấu ngành đạt kết quả cao, các đơn vị của ngành cần phối hợp với các tỉnh, thành phố đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, doanh nghiệp và nông dân về tái cơ cấu nhằm tạo sự chuyển biến. Các địa phương, doanh nghiệp tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các đề án tái cơ cấu các sản phẩm trồng trọt chủ lực nhằm mục tiêu nâng cao thu nhập cho nông dân. Trong đó, lựa chọn sản phẩm có lợi thế, tìm kiếm thị trường, tiến bộ khoa học kỹ thuật, khả năng cạnh tranh cao để khi áp dụng vào thực tế sẽ mang lại hiệu quả.
Ông Nguyễn Văn Truyền xóm Vũ Kỳ, xã Đồng Thành bắt đầu được dùng nước sạch thay thế nước giếng nhiễm thuốc BVTV. . Cùng với đó, Chi cục Thú y Hà Nội cũng tăng cường kiểm tra, kiểm soát tại các chốt kiểm dịch đầu mối, lò mổ, điểm giết mổ tập trung, cơ sở chế biến, bảo quản, kinh doanh sản phẩm động vật. Qua kiểm tra, lực lượng Thú y đã phát hiện và xử lý cảnh cáo 2 trường hợp vi phạm, xử phạt hành chính 8,5 triệu đồng. Hoàng Quyết. Cạnh tranh khốc liệt Để tồn tại trên thị trường phân bón trăm hoa đua nở” như hiện nay, các doanh nghiệp phải có nhiều chiêu độc”. Gần đây, công ty sản xuất phân bón T.P.N huyện Củ Chi bị công ty T.L tố nhái” nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ thuoc bao ve thuc vat độc quyền. Tuy nhiên, khi cơ quan chức năng kiểm tra thì phát hiện sản phẩm bị tố nhái” được sản xuất trước sản phẩm được bảo hộ, nên ai nhái của ai là cả vấn đề còn tranh chấp.. Chứng nhận hợp quy thực phẩm VIPA cũng sẽ đẩy mạnh việc phản biện, thẩm định xã hội về thuốc BVTV, góp ý kiến vào các văn bản pháp quy, hợp tác chặt với Cục BVTV trong việc quản lý thuốc BVTV; hợp tác quốc tế trong sản xuất kinh doanh. Đ.C.P. Xây thư viện để làm gì?. Hiện có một lượng lớn thuốc BVTV ngoài danh mục sử dụng tại nhiều vùng sản xuất. Ảnh minh họa. Trang chủ An ninh Thế giới ANTG Cuối tháng Văn nghệ Công An Cảnh sát toàn cầu Sơ đồ Website RSS thuoc bao ve thuc vat FAQ Liên kết Web Phụ trách biên tập: Trần Thị An Bình - Nguyễn Trang Dũng - Trần Anh Tú ©2007. Báo Công an nhân dân điện tử - CAND Online. All rights reserved. Không sao chép thông tin từ website này khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Công an nhân dân.
III. Điều này không những gây thiệt hại trực tiếp đến bà con nông dân mà còn làm giảm uy tín các công ty kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật chính hãng
Tập huấn cách sử dụng thuốc BVTV theo phương pháp 4 đúng. Bí quyết tạo nên sự khác biệt Chất phụ gia là những chất không mang tính độc với dịch hại, được pha trộn chung với hoạt chất để tạo thành các dạng thuốc thành phẩm. Nhiều người vẫn lầm tưởng rằng, các loại thuốc có cùng một hoạt chất thì hiệu quả là như nhau nên cứ cái gì rẻ thì mua. Nhưng liệu hoạt chất có phải là thành phần duy nhất quan trọng? Theo tiến sĩ Randy Cush- chuyên viên về hoạt chất và thành phẩm của Tập đoàn Syngenta: Các chất phụ gia trong sản phẩm là yếu tố rất quan trọng làm nâng cao hiệu quả sinh học của thuốc BVTV. Một sản phẩm BVTV chất lượng tốt, phát huy tác dụng cao thì hoạt chất không phải là thành phần duy nhất quan trọng mà còn có vai trò cốt lõi của chất phụ gia, giúp cho phép người nông dân sử dụng thuốc an toàn, hiệu quả, bền vững. Sản phẩm của Syngenta không chỉ có những hoạt chất tinh khiết, mà còn chứa những chất phụ gia đặc biệt, ví dụ như chất thấm nước và khuyếch tán giúp chuyển hoạt chất thành dạng dễ tan trong nước; chất bám dính giúp chống rửa trôi trên mặt lá do thời gian, gió, nước, tác động cơ học, hóa học; chất loang trải giúp thuốc phân bố đều trên bề mặt tiếp xúc; chất an toàn đảm bảo thuốc an toàn cho cây trồng”. Kết quả nghiên cứu từ phòng thí nghiệm của Syngenta, 2013 tại Thụy Sĩ từ 223 mẫu sản phẩm thuốc trừ bệnh chứa hoạt chất Azoxystrobin và Difenoconazole cho thấy cứ 3 trong 4 sản phẩm thông thường ngoài thị trường không có chứa sẵn hay chứa đầy đủ các chất phụ gia. Đồng tình với ý kiến trên, PGS-TS Nguyễn Văn Viên, Học viện Nông nghiệp Việt Nam nhận định: Các nhà sản xuất lớn thường xuyên có những nghiên cứu chuyên sâu và đưa vào trong sản phẩm của mình một tỷ lệ thích hợp những chất phụ gia để phát huy tối đa hiệu lực sinh học của hoạt chất. Đây cũng chính là bí quyết của mỗi nhà sản xuất để tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm của mình”. Công nghệ được chứng minh Tất cả các sản phẩm BVTV của Syngenta đều trải qua một quá trình đánh giá, kiểm tra kỹ lưỡng, nghiêm ngặt để đảm bảo thành phẩm có tính ổn định và không có tác động tiêu cực đối với sức khỏe con người và môi trường. Mỗi sản phẩm trước khi đưa ra thị trường đều phải được nghiên cứu phát triển, đánh giá và khảo nghiệm về hiệu lực sinh học cũng như độc tính bởi các trung tâm nghiên cứu khoa học có uy tín trên thế giới và được đăng ký lưu hành tại các nước sở tại với tiêu chí an toàn, hiệu lực và dễ sử dụng. Syngenta có một lực lượng hùng hậu các chuyên gia cùng với công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực hóa bảo vệ thực vật để phát triển và cung cấp các sản phẩm tối ưu thông qua hệ thống phân phối được quản lý và phát triển rộng khắp cùng với hệ thống chuyển giao kỹ thuật sâu rộng đến nông dân tại Việt Nam và trên toàn cầu. Chính vì vậy, khi mua một sản phẩm của Syngenta, người nông dân không đơn giản là chỉ mua một hoạt chất mà là một sản phẩm công nghệ được phát triển từ sự phục vụ của một công ty chuyên nghiệp, luôn mang đến những giải pháp tiên tiến và chất lượng nhất cho người nông dân. Tăng hiệu quả đầu tư Con số tổng hợp từ 60 thí nghiệm của Syngenta được thực hiện trong 2 năm 2012-2013 với 28 chi cục BVTV trên cả nước cho thấy áp dụng các sản phẩm BVTV như Cruiser Plus, Sofit 300EC, Filia, Amistar Top, Virtako, Chess, Tilt Super… trong một giải pháp tích hợp đồng bộ của Syngenta trên cây lúa đã giúp người nông dân đạt mức lợi nhuận tăng hơn 4 triệu đồng/ha, là kết quả của gói giải pháp kỹ thuật mà các loại thuốc này mang lại cho việc gia tăng năng suất, tăng chất lượng hạt gạo và giảm chi phí phun thuốc BVTV. Được biết, chỉ riêng trong năm 2011, Syngenta đã tổ chức tập huấn cho gần 3 triệu nông dân, trong đó 87,5% là ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương nhằm cung cấp cho họ kiến thức về sử dụng thuốc BVTV an toàn, cách vận chuyển, lưu giữ, pha trộn, sử dụng thuốc đúng mà không gây nguy hiểm cho con người và môi trường. Chương trình tập huấn này sẽ được lặp lại liên tục hàng năm với con số tập đoàn kỳ vọng là 20 triệu nông dân, đặc biệt tại các nước đang phát triển sẽ được tham gia huấn luyện an toàn lao động tính riêng trong khoảng thời gian 2014 – 2020. Thông qua các chương trình của Syngenta, chỉ riêng năm 2013 tại Việt Nam đã có hơn 200.000 nông dân được nâng cao kiến thức về sử dụng hiệu quả thuốc theo nguyên tắc 4 đúng, mang lại những thay đổi tích cực cho nhà nông và sản xuất của họ. Theo kết luận điều tra, giữa năm 2010, Công thuốc bảo vệ thực vật an TP Cần Thơ phát hiện Tín mua bán thuốc BVTV giả. Ngày 14-8-2010, công an kiểm tra phòng trọ nơi Tín thuê ở phường An Hòa, quận Ninh Kiều TP Cần Thơ và phát hiện lượng lớn thuốc BVTV giả. Công an đã niêm phong hơn 25.000 gói Nativo, 1.600 gói Beam, gần 100 chai Tilt Super và tem, nhãn, giấy tờ Tilt Super. Tổng số thuốc BVTV giả mà Tín đã mua để bán lại có giá trị hơn 883 triệu đồng. GIA TUỆ. Theo đó, Bộ trưởng Cao Đức Phát giao Thanh tra Bộ chủ trì, phối hợp với Cục BVTV, Cục Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản và các địa phương thanh tra trên diện rộng về quản lý thuốc trừ sâu, xử lý nghiêm các vi phạm theo thẩm quyền. Bộ trưởng Bộ NN&PTNT cũng giao Cục BVTV đề xuất, phối hợp với các cơ quan công an, quản lý thị trường nắm chắc tình hình nguồn hàng, đầu nậu, mạng lưới, đấu tranh quyết liệt có hiệu quả với tình trạng buôn lậu thuốc BVTV qua biên giới và tiêu thụ trong nước. Mọi việc báo cáo Bộ trưởng trước ngày 31-12-2014. Hải Dương. 1. Rút súng bắn thị uy, cả quán nhậu chạy náo loạn 2. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tiếp Chủ tịch Ủy ban An ninh Quốc gia Cộng hòa Belarus 3. Vụ sát hại vợ rồi tự sát: Nghi can đã qua cơn nguy kịch 4. Giả người quen dùng băng keo bịt miệng cụ bà cướp tài sản 5. Tạm giữ kẻ chuyên ‘bẻ khóa’ khu nhà trọ sinh viên 6. Hình phạt nghiêm khắc cho nhóm bắt cóc học sinh đưa sang biên giới 7. Bkav tài trợ 12,7 tỷ đồng học bổng cho sinh viên ĐH Bách khoa Hà Nội 8. Thị trường ngày 24/9 9. Cụm thi đua số 11 giao ban công tác XDLL 9 tháng đầu năm 2014 10. NXB Trẻ giảm giá 50% tại Hội sách .. Lập công ty ma, thuê con nghiện, thợ sửa xe làm giám đốc. Ông Huỳnh Phước Tuấn, đại diện Antesco cho biết, ngày 11/12, công ty tiến hành lấy mẫu đậu nành rau nguyên liệu kiểm tra dư lượng thuốc BVTV trước khi thu hoạch tại hộ Phan Văn Đây, xã viên Hợp tác xã nông nghiệp Thành Lợi thị trấn Cái Dầu. Kết quả cho thấy hàm lượng cypermethrin và difecconazole đều vượt mức cho phép. Tiêu hủy đậu nành rau Theo trình bày của ông Phan Văn Đây, vì hiệu quả kinh tế của đậu nành rau rất cao nên ông đã tuân thủ đúng thời gian cách ly theo khuyến cáo khi phun thuốc BVTV. Nhiều khả năng việc nhiễm này là do ảnh hưởng từ việc phun thuốc đám đậu nành liền kề. Theo kỹ sư Huỳnh Thị Khắc Hạnh, Phó phòng NN-PTNT huyện Châu Phú, cũng không loại trừ khả năng do ảnh hưởng thời tiết bất thường, cây đậu nành rau bị nhiễm bệnh nám trái, và do đây là bệnh mới, chưa có phác đồ điều trị tích cực và hiệu quả nên nông dân đã phun xịt nhiều loại thuốc… dẫn đến tình trạng dư lượng thuốc BVTV. Được biết, đây là số đậu nành rau trong thửa 0,6ha của ông Đây, có tổng sản lượng 6.000kg. Ngoài số lượng tiêu hủy, ông Đây cũng cam kết không bán ra ngoài cho người tiêu dùng 4.700kg đậu nành rau còn lại. Tùng Hương. Cần tăng cường tập huấn hướng dẫn nông dân về quy trình kỹ thuật sử dụng thuốc BVTV trên cây chè. Dùng thuốc không đăng ký để sản xuất rau Trên diện tích gần 320.000ha đất canh tác nông nghiệp, mỗi năm nông dân trong tỉnh Lâm Đồng sử dụng khoảng 16.000 tấn thuốc BVTV. Trong gần 320.000ha đất canh tác nông nghiệp của tỉnh, diện tích rau chiếm khoảng 47.000ha và chè gần 24.000ha. Qua kiểm tra 8 cơ sở trên địa bàn các huyện Đơn Dương, Đức Trọng và TP.Đà Lạt, Chi cục BVTV Lâm Đồng báo cáo: Có 3 cơ sở là trang trại Lê Công Thôn Đức Trọng, HTX Kim Bằng Đà Lạt và cơ sở Mai Văn Khẩn Đà Lạt sử dụng loại thuốc BVTV không có đăng ký sử dụng trên rau. Bên cạnh đó, Chi cục BVTV Lâm Đồng còn báo cáo: Đối với nông dân sản xuất rau truyền thống vẫn còn thể hiện nhiều yếu tố bất cập trong sử dụng thuốc BVTV như: 46% số hộ nông dân thường tăng nồng độ sử dụng so với khuyến cáo, 42% số hộ phun thuốc khi sâu bệnh gây hại còn ở mức độ thấp, 39% số hộ phun thuốc định kỳ không theo kết quả điều tra phân tích hệ sinh thái đồng ruộng, 38% số hộ sử dụng thuốc không đăng ký phòng trừ dịch hại trên rau, trong đó có một số loại thuốc thuộc danh mục hạn chế sử dụng. Chi cục BVTV Lâm Đồng còn cho biết cụ thể: Trong năm 2012, nông dân trong tỉnh đã sử dụng 1.800 tấn thuốc BVTV trên cây rau; trong đó, lượng thuốc BVTV trên cây rau họ thập tự là 814 tấn, rau họ cà 697 tấn và các loại rau khác là 262 tấn. Qua kiểm tra và phân tích định tính dư lượng thuốc BVTV trên 4.246 mẫu rau quả cải thảo, parot, hành lá, cà chua, đậu Hà Lan, ớt ngọt, đậu leo, hành tây, khoai tây, dâu tây, dưa leo..., kết quả cho thấy có đến 202 mẫu có dư lượng thuốc BVTV vượt giới hạn an toàn, riêng với 160 mẫu rau Đà Lạt qua phân tích, có đến 26 mẫu rau không an toàn; gồm cải thảo, hành lá, cà chua, ớt ngọt, đậu leo, hành tây và dâu tây. Lạm dụng cả trên cây chè Trong năm 2012, lượng thuốc BVTV được sử dụng trên cây chè của tỉnh Lâm Đồng là 879 tấn. Kết quả điều tra tình hình sử dụng thuốc BVTV tại 720 hộ nông dân trồng chè ở 3 huyện Di Linh, Bảo Lộc và Bảo Lâm của Chi cục BVTV Lâm Đồng cho thấy: Việc lạm dụng thuốc BVTV để phòng trừ dịch hại trên cây chè vẫn còn phổ biến. Chẳng hạn, 85,8% số hộ dân phun thuốc khi dịch hại ở mức độ thấp, 42,8% số hộ dân phun thuốc tăng liều lượng so với khuyến cáo, thuốc bảo vệ thực vật 83% số hộ dân còn phối trộn từ 2 - 3 loại thuốc trừ sâu hoặc trừ bệnh để phun trong một lần, số lần phun trong năm còn cao 38,4% số hộ dân phun 5 - 7 lần/năm, 25,9% số hộ dân còn phun trên 7 lần/năm...”. Đặc biệt, nhiều người dân vẫn còn sử dụng các hoạt chất chỉ khuyến cáo sử dụng trên cây càphê, caosu để phòng trừ dịch hại trên cây chè, gây nên hiện tượng sâu kháng thuốc, làm bùng phát dịch hại và là nguyên nhân chính để lại dư lượng thuốc BVTV vượt mức cho phép trên sản phẩm chè. Thêm vào đó, qua kiểm tra 4 cơ sở sản xuất trà an toàn, Chi cục BVTV Lâm Đồng còn phát hiện 2 đơn vị là Cty trà Vinasuzuki và Cty trà Kinh Lộ còn sử dụng một số thuốc BVTV không đăng ký sử dụng trên cây chè như Virofos 20EC, Visher 25EC... Để hạn chế thấp nhất di hại của thuốc BVTV, Chi cục BVTV Lâm Đồng đề nghị Xây dựng các chương trình giám sát dư lượng thuốc BVTV tại các chợ đầu mối, vựa cung cấp rau, các cơ sở sản xuất rau an toàn để cảnh báo cho người sản xuất trong việc đảm bảo quy trình sản xuất, người tiêu dùng trong việc lựa chọn sản phẩm an toàn”. Tuy vậy, chế tài xử lý hiện tượng sử dụng tràn lan hóa chất BVTV trong nông dân vẫn còn khá tù mù và ít mang lại hiệu quả. Robot phun thuốc trừ sâu chạy trình diễn trên đồng ruộng - Ảnh: Thanh Dũng .
Trang chủ An ninh Thế giới ANTG Cuối tháng Văn nghệ Công An Cảnh sát toàn cầu Sơ đồ Website RSS FAQ Liên kết Web Phụ trách biên tập: Trần Thị An Bình - Nguyễn Trang Dũng - Trần Anh Tú ©2007. Báo Công an nhân dân điện tử - CAND Online. All rights reserved. Không sao chép thông tin từ website này khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Công an nhân dân. Theo ông Lê Hữu Lãnh, tiểu thương chuyên buôn hàng nông sản Trung Quốc và cả Đà Lạt về TP.HCM bán sỉ, có sự khác biệt rất lớn giữa mẫu mã bên ngoài của hàng nông sản Trung Quốc và nông sản sản xuất trong nước nói riêng, đặc biệt ở những mặt hàng thể hiện rõ rệt như gừng, tỏi, cà rốt... Theo đó, gừng Trung Quốc thường có hai màu vỏ là màu vàng và màu vàng pha trắng nhợt. Các củ gừng Trung Quốc có lớp vỏ nhẵn nhụi, căng mọng, củ to, đều, ít nốt sần sùi, được vệ sinh rất sạch sẽ. So với gừng trong nước, củ gừng Trung Quốc thường to gấp rưỡi, có khi gấp đôi. Gừng trồng trong nước lớp vỏ xỉn màu hơn, rễ và nốt sần sùi nhiều hơn. Gừng Trung Quốc đẹp vượt trội gừng VN nhưng mùi thơm thì gừng VN lại ăn đứt” hàng Trung Quốc. Tương tự, tỏi Trung Quốc có củ rất to, các tép tỏi cũng to, vỏ dễ bóc. Trong khi đó tỏi VN củ nhỏ hơn, các tép tỏi nhỏ và lớp vỏ khó bóc hơn. Tỏi VN dậy mùi hơn hẳn tỏi Trung Quốc ngay cả khi chưa được đưa vào chế biến. Cà rốt Trung Quốc cũng là mặt hàng rất dễ phân biệt bởi gần như toàn bộ đều có màu cam sặc sỡ hơn, vỏ mọng hơn và to đều, đẹp hơn cà rốt Đà Lạt. Ngoài ra, hàng Trung Quốc được nhập về VN hiện nay đa số đều xếp trong các xe container lạnh để đảm bảo độ tươi của sản phẩm. Hàng đông lạnh nên được cắt lá, rễ rất kỹ càng, khác hoàn toàn với nông sản trong nước vẫn còn để sót lại nhiều lá, rễ, cuống... Tuy nhiên, để chắc chắn không bị mua nhầm hàng Trung Quốc, các bà nội trợ nên mua ở những nơi có niêm yết xuất xứ trước mỗi khay hàng cụ thể. Tại các siêu thị, cửa hàng chuyên về nông sản, thực phẩm tươi sống... Nhà phân phối thường đề rõ vào bảng giá tên sản phẩm đi kèm xuất xứ. B.HOÀN. Bản báo cáo của Trung tâm Hữu cơ TOC, Hiệp hội Các nhà Khoa học UCS và Trung tâm An toàn Thực phẩm CFS - cho biết, lượng thuốc trừ cỏ sử dụng đã tăng 383 triệu pao 1 pao = 453.59237 gram từ năm 1996 đến năm 2008, trong đó 46 % lượng gia tăng là trong khoảng 2007-2008. Theo Báo cáo, trong khi lượng thuốc diệt cỏ sử dụng tăng lên, thì lượng thuốc trừ sâu lại giảm, kết quả của việc áp dụng các giống cây biến đổi gen có đặc tính kháng côn trùng. Tính từ năm 1996, lượng thuốc trừ sâu sử dụng đã giảm 64 triệu pao. Sau 13 năm thương mại hóa cây trồng biến đổi gen, tổng lượng thuốc BVTV dùng trong nền nông nghiệp Hoa Kỳ đã tăng 318 triệu pao, bao gồm cả thuốc trừ sâu và chất diệt cỏ. Lượng thuốc diệt cỏ được gia tăng sử dụng là do nông dân Mỹ ngày càng trồng nhiều các loại ngô, đậu tương và bông đột biến gen có khả năng kháng thuốc diệt cỏ. Phổ biến nhất là giống đậu tương Roundup Ready với khả năng chống chịu với thuốc diệt cỏ Roundup, một loại giống của Công ty Monsanto – người khổng lồ” trong ngành công nghiệp hạt giống thế giới. Các viên chức Monsanto từ chối bình luận về bản báo cáo trên. Trong khi đó, Tổ chức Công nghệ Sinh học mà Monsanto là thành viên cho biết, việc giống cây trồng kháng thuốc trừ cỏ được áp dụng rộng rãi cho thấy giá trị vượt xa mọi hệ lụy của nó. Ông Mike Wach, Giám đốc Ban khoa học và Quản lý của Tổ chức Công nghệ Sinh học thì cho rằng rõ ràng loại giống này đã mang lại những lợi ích nhất định đối với nông dân. Bởi vì nếu nông dân cảm thấy loại cây này mang lại nhiều khó khăn hơn là thuận lợi thì họ đã ngừng sử dụng. Các viên chức của Tổ chức Công nghệ Sinh học còn viện dẫn một báo cáo do Economics PG Ltd. Công bố đầu năm 2009 cho biết lượng chất diệt cỏ sử dụng trong các loại cây trồng đậu tương công nghệ sinh học trên toàn cầu giảm 161 triệu pao, tức là 4,6% từ 1996 đến 2007. Theo bản báo cáo của các nhóm môi trường, sự gia tăng sử dụng thuốc trừ cỏ đặc biệt nguy hại ở chỗ, nó khiến các loại siêu cỏ dại sản sinh, trong khi giống cỏ dại này rất khó tiêu diệt vì bản thân chúng đã có khả năng kháng thuốc diệt cỏ. Ông Charles Benbrook, giám đốc khoa học TOC cho biết, với loại cỏ dại kháng thuốc diệt cỏ Glyphosate hiện đang hoành hành trên các cánh đồng, nông dân phải đối mặt với chi phí phát sinh gấp đôi và còn có nguy cơ mất mùa, chưa kể tới các ảnh hưởng môi trường khác. Các nhóm môi trường cũng chỉ trích ngành công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp vì trước đây họ từng rao giảng rằng chi phí cao hơn mà nông dân phải bỏ ra để mua hạt giống biến đổi gen sẽ được bù đắp bằng những lợi ích vượt trội, bao gồm cả việc giảm chi phí thuốc trừ sâu. Được biết, giá hạt giống ngô công nghệ sinh học năm 2010 có thể tăng gấp gần ba lần chi phí hạt giống thông thường, trong khi đó hạt giống đậu tương công nghệ sinh học cải tiến năm 2010 có thể tăng giá tới 42% so với phiên bản công nghệ sinh học gốc. Bản báo cáo được đánh giá là đã xác nhận những cảnh báo trong nhiều năm qua từ giới khoa học, rằng các loại cây trồng biến đổi gen khiến việc sử dụng thuốc BVTV tăng, làm lan tràn dịch cỏ dại, để lại dư lượng hóa chất trong thực phẩm. Điều này rốt cục chỉ sinh lợi cho các công ty công nghệ sinh học, các công ty sản xuất thuốc BVTV, nhưng lại mang họa cho nông dân, sức khỏe con người và môi trường. Đồng Linh Theo Reuter. Tổng cục Thủy sản Bộ Nông nghiệp và PTNT cho biết, từ đầu năm đến nay cả nước đã có gần 90.000ha tôm nuôi bị chết,bằng 294% năm 2010 và cao nhất trong 10 năm qua. Một số tỉnh có diện tích nuôi bị thiệt hại lớn là Sóc Trăng gần 70% diện tích thả nuôi; Cà Mau có hơn 8.300ha; Bạc Liêu, Kiên Giang, Bến Tre cũng bị thiệt hại lớn. Nguyên nhân là do các diện tích này đều bị ngộ độc do thuốc diệt giáp xác, diệt tạp. Thực tế cho thấy, phần lớn hộ bị thiệt hại thường dùng sản phẩm diệt tạp có thành phần nông dược thuốc bảo vệ thực vật là Cypermethrine, thậm chí một số hộ sử dụng trực tiếp thuốc BVTV như Padan, Dexit, Visher… Theo ông Phạm Anh Tuấn, Phó tổng Cục trưởng Tổng cục Thủy sản Bộ Nông nghiệp và PTNT, hiện trên thị trường có khoảng 20 sản phẩm có chứa cypermethrin với tên gọi khác như Sherpa, Ambush C, Cymbush, Peran, Cyperan, Barricade, Ripcord, Ammo, Cypermethrine, Asymmethrin, Cymperator, Cypercopal, Hilcyperin, Neramethrin... Chất có chứa Cypermethrin lâu nay chỉ được dùng làm thuốc BVTV nhưng có trường hợp người dân dùng những sản phẩm có cypermethrin vào nuôi trồng thủy sản để diệt giáp xác tại các ao nuôi thủy sản, nhất là trong quá trình cải tạo ao nuôi tôm. Đây là chất rất độc, chỉ cần ở nồng độ 0,05ppm 0,05 phần tỉ cũng đủ để tôm chết 50%. Đặc biệt, Cypermethrin có độc tính trung bình đối với người nếu thông qua hô hấp, còn qua đường tiêu hóa thì độc tính cao hơn. Theo các nhà khoa học, hoạt lực của Cypermethrin có thể tồn tại trong môi trường nước từ 42 – 72 ngày nhưng vì không nắm rõ nên chỉ 12 – 20 ngày sau khi xử lý ở ao nuôi nhiều người đã thả nuôi tôm. Được biết, thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với kim ngạch khoảng 5 tỷ USD/năm. Trong 11 tháng đầu năm, giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 5,6 tỷ USD, tăng 24,9% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, xuất khẩu thủy sản của nước ta cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức đặc biệt là hàng rào kỹ thuật đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước. Hiện, nhà chức trách Mỹ không cho phép nhập khẩu và lưu hành sản phẩm thủy sản có chứa cypermethrin; Nhật Bản cho phép ở mức 10 - 30 ppb từ 10 - 30 phần tỉ, còn quy định của Liên minh châu Âu là 50 phần tỉ ppb. Thời gian qua, một số lô hàng thủy sản của Việt Nam đang bị cảnh báo có dư lượng hoạt chất Trifluralin và Enrofloxacin vượt mức cho phép. Vì thế, nếu tình trạng sử dụng thuốc BVTV vô tội vạ như hiện nay của người nuôi sẽ kéo theo rất nhiều hệ lụy. Không chỉ là tôm, cá và các loài khác bị chết mà còn ảnh hưởng rất lớn tới vấn đề xuất khẩu của ngành. Do đó, việc ngăn chặn, giải quyết ô nhiễm thuốc BVTV trong NTTS là một yêu cầu bức thiết hiện nay. Theo các chuyên gia, cùng với việc tiến hành các biện pháp khắc phục, loại bỏ thuốc BVTV trong môi trường đất, nước, ao nuôi thì cần phải kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng thuốc ngay từ đầu vào. Vừa qua, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Cao Đức Phát đã phải yêu cầu cấm 20 loại thuốc BVTV có chứa hoạt chất Cypermethrin trong NTTS. Quỳnh Hương .. ĐỌC NHIỀU NHẤT Khách sạn nổi Sài Gòn lênh đênh ... Mỹ bắt đầu không kích IS tại ... Hai bộ bất đồng về một con số Thấy gì qua việc toàn người nghèo ... Công trình đội vốn” và gánh nặng ... Lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước nào ... Một số sản phẩm từ sò lông, sò ... Xây thư viện để làm gì?. Ông Nguyễn Văn Truyền xóm Vũ Kỳ, xã Đồng Thành bắt đầu được dùng nước sạch thay thế nước giếng nhiễm thuốc BVTV. Đà Nẵng và Quảng Nam sắp bán xăng E5 thuốc bảo vệ thực vật. TIN TỨC THỊ TRƯỜNG .
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét